Tóm lược nhận định của các nhân chứng lịch sử:
Phiá
Cộng Sản và thân Cộng Sản :
1-Hồ Chí Minh :
Hồ Chí Minh van xin Khâm sứ Pháp để tìm việc làm cho cha :
…Thôi
thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công việc
như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để, dưới tấm
lòng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai”
Hồ Chí Minh chọn Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản:
“Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói
thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều
điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều là Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn
đề giải phóng thuộc địa. Đệ Tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức
giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ Nhị Quốc tế không hề
nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ
Tam Quốc tế.
Hồ Chí Minh xin
được học trường làm quan cai trị cho thực dân Pháp:
“Tôi
xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học
nội trú Trường Thuộc Ðịa….”
Một bất hạnh cho đất nước Việt Nam, khi Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa ngoại
lai vào áp dụng thay vì các chủ nghĩa yêu nước của Dân Tộc:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách
mạng
vô sản”.
Lời của tên đầy tớ nói với tên đồ tể Stalin:
Đồng chí Stalin kính mến !
Tôi gửi cho đồng chí đề
án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam . Đề án này
tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của 2 đồng chí Liu
Shaoshi và Van Szia-Sian. Đề
nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này. Kính gởi tới đồng chí lời chào cộng sản.
Bằng chứng Hồ là tay sai của QTCS ngay sau khi kết thúc trận chiến tại Điện Biên
Phủ năm 1954, trong cuộc họp mừng chiến thắng, chính ông Hồ Chí Minh đã tuyên bố
trước hội nghị “Nhận chỉ thị của Quốc Tế
Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ..”
2-Phạm Văn Đồng :
Phạm Văn Đồng công nhận sự bất
mản của đồng bào đối với đảng Cộng Sản Việt Nam:
“Tôi cho rằng cái nhà của chúng ta hiện nay đang nhiều rác rưởi và dơ bẩn,
làm cho quần chúng nhân dân phẫn nộ một cách chính đáng.
Trong tình hình như vậy, việc chúng ta phải đặt lên hàng đầu công tác quét cái
nhà của chúng ta, quét dọn mọi rác rưởi và dơ bẩn, làm cho nó ngày
càng sạch sẽ, có như vậy chúng ta mới có môi trường và cơ hội thuận
lợi để làm tốt các công tác khác.”.
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà ghi nhận
và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958”.Tức là
công nhận Hoàng Trường Sa là của Trung Cộng
Sự bất lực của Phạm Văn Đồng:
“ Tôi làm Thủ tướng hơn ba chục năm , nhưng ngay cả
quyền bổ nhiệm một thành viên của Chính phủ tôi cũng không có thực
quyền”.
Ông Phạm Văn Đồng còn thẳng thắn nhận định sự tệ hại
của đảng CSVN :“Chúng ta thường được báo cáo rằng chất lượng tổ chức
của Đảng và đảng viên là trong sạch chiếm đến 70-80%. Nhưng thật sự
đâu có vậy, đảng viên một phần không nhỏ không có phẩm chất chính trị,
tư tưởng và tác phong của người cộng sản.”
Phạm
Văn Ðồng tuyên bố ( lời nói dối vĩ đại) với phóng viên nước ngoài: “Chẳng ai lại có cái ý nghi ngu xuẩn và tội lỗi
là thôn tính miền Nam”.75
3-Võ Nguyên Giáp:
Võ Nguyên Giáp kể lại chiến dịch Điện Biên do sự
chỉ huy của đoàn cố vấn Trung Quốc như sau:
“Tôi
mở bản đồ trình bày về tình hình địch, những lục lượng của ta tham gia chiến dịch,
rồi nói về phương án tác chiến, những lý do mở đầu chiến dịch bằng
đánh Đông Khê. Trần Canh - sang thay đồng chí La Quý Ba đã về nước – nhìn trên
bản đồ, hỏi về binh lực, điạ hình , công sự phòng thủ của địch tại Cao Bằng,
Đông Khê, Thất Khê, rồi nói: “...Đánh Đông Khê để kéo viện binh địch lên đánh là
chiến thuật “đánh điểm diệt viện” giải phóng quân Trung Quốc thường
dùng trong chiến tranh chống quân Tưởng. Việt Nam nên vận dụng nhiều
chiến thuật
này..”
Võ Nguyên Giáp
thú nhận: “Nhân dân tỉnh Tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc đã hết
lòng đóng góp lương thực cho chiến dịch. Những đoàn xe vận tải của quân giải phóng Trung Quốc
chạy thâu đêm
cả tháng ròng trên những con đường cửa khẩu Việt Nam – Trung Quốc. Tính đến hết năm
1950, ta đã tiếp nhận của Trung Quốc: 1200 tấn vũ khí đạn dược, 180 tấn quân trang, quân dụng,
2634 tấn gạo, 20 tấn thuốc và dụng dụ quân y, 800 tấn hàng quân giới, 30 ô
tô, 120 tấn xăng
dầu. Viện trợ của Trung Quốc là nguồn cung cáp quan trọng và hiệu quả cho chiến dịch!”
“Ngày đầu xuân Giáp Ngọ - 1954 - tôi sang lán của đồng
chí Vi Quốc Thanh chúc Tết đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc vì sự nghiệp
kháng chiến
của nhân dân Việt Nam phải tiếp tục ăn một cái Tết ỏ ngay mặt trận. Đồng chí Vi vui
vẽ chúc mùng. Đồng chí cho biết: sau khi phân tích rõ về chỗ mạnh,
chỗ yếu của địch và ta, các cố vấn đều nhất trí với chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch
Qua lời kể đó, chính Giáp đã nhìn nhận rằng chính các cố vấn quân sự Trung Quốc, trong trường hợp này
là Vi Quốc Thanh đã chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch trong trận Điện Biên Phủ. Một trong những sự thay đổi đó là đánh bằng
giao thông hào. Nghĩa là Giáp chỉ là công cụ thi hành tất cả những chỉ đạo do đoàn cố vấn
quân sự Trung Quốc đưa ra mà thôi, chứ tài quân sự của Giáp hoàn toàn không có.
Giáp chỉ biết thâu tóm tất cả các ý kiến đó rồi đem đến
trình bày lại với Vi Quốc Thanh những điều đã thảo luận, chứ mặc nhiên cá nhân của Giáp hoàn
toàn không có ý kiến gì hết.
Giáp kể: “Tôi thấy cần gặp trưởng đoàn cố vấn quân
sự của
bạn , hy vọng sẽ có sự đồng tình: lưạ chọn phương án “đánh nhanh thắng nhanh”. (17)
4-Lê Duẩn :
1-Lê Duẩn chủ trương ém quân, chôn dấu vũ khí trong thời
điểm 1954 với ý đồ tấn công xâm lược Miền Nam ngay khi Hiệp Định
Genève còn chưa ráo mực.80 htttp://www.library4vn.com/index
2- Lê Duẩn một con người chủ chiến và hiếu sát:
Thành phần ít học nhưng có
nhiệt tâm theo chủ nghĩa Cộng sản, bản chất cộc cằn, cục mịch và hiếu sát81qua chủ trương đưa đi “học tập Cải tạo”
thực tế là bỏ tù hàng trăm
ngàn sĩ quan và quân chính VNCH. Sự kiện trả thù nầy đã khiến cho hàng trăm ngàn gia đình
ly tán và hàng trăm ngàn tù Cải Tạo chết trong tù.82
3-Trong Bộ Chính Trị đảng CSVN chính vì áp lực của Duẩn
mà phe chủ chiến đã thắng
thế để tấn công vượt
vĩ tuyến vào Miền Nam ,trong khi Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chủ trương thận trọng không vội vàng
trong cuộc xâm lăng Miền Nam.83
4-Lê Duẩn là kẻ ra lệnh sát hại các tướng lãnh, các đối thủ
chính trị khác
với ông ta.~ Nhiều bằng cớ cho thấy Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã khuynh đảo BCT và ra tay sát hại các
tướng lảnh, cán bộ không cùng phe cánh.
http://forums.vietbao.com/topic.asp?TOPIC_ID=15050
Lê Duẫn: Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc
Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng CS (năm 1976 đổi là tổng bí thư), đã nói :
-
"Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc."(21) Đảng Lao
Động tức đảng CSVN đã dùng xương máu cuả đồng bào Việt Nam để trả nợ cho
Nga Hoa.
Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký
chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California,
1997, tr. 422, phần chú thích.)
- " ta đã thành công trong việc cắm lá cờ Mac-Le trên toàn cõi VN !"
-
Cụ thể L Duẫn ngang nhiên áp đặt CNCS lên đầu toàn dân VN, ghi trong
Hiến Pháp; đổi tên nước là CHXHCNVN; đặt điều 4 HP lên cổ nhân dân VN
(sao chép điều 6 của HP Liên Xô); đổi tên đảng Lao Động (lừa bịp dân lúc
trước vì dân không thích cs) thành đảng csvn !
- thực
chất, cuộc chiến VN là nội chiến, lồng trong cuốc chiến ý thức hệ trên
thế giới, mà hcm và csvn là kẻ gây chiến để bành trướng cncs ở VN và
Đông Nam á châu, làm nghĩa vụ quốc tế vô sản.
(theo N C Thiện, và tài liệu csvn)
5-Trường Chinh :
Trường Chinh với đầu óc
nô lệ ngoại bang, hô hào bỏ chữ Quốc Ngữ để dùng chữ Tàu, bỏ Tây Y mà chỉ dùng
Đông Y thôi:
“ Hỡi đồng bào thân mến !
Tại sao lại nhận vào
trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu
làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản
đem vào !
Tại sao ta lại truyền
bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị
kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế.
Không, đồng bào của ta
nên loại hẳn cách viết theo lối Âu Tây ấy – một cách viết rõ ràng có mau thật đấy
– và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước,
là thứ chữ nho của Trung Quốc.
Chúng ta hãy gạt bỏ
cách chữa bệnh của bọn Ðế quốc phương Tây đem qua xứ ta !Ta hãy
bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc
dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tầu danh tiếng
khắp cả hoàn cầu .
Ta hãy trở về phương
pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra
khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta
bao nhiêu những đồ nhập cảng thực
dân như là khoa hoc, phát minh v.v...”
Trường Chinh
Tổng thư ký đảng Lao Ðộng
Tóm lại trong chức vụ Trưởng Ban Chỉ Đạo Trung Ương CCRĐ,
Trường Chinh người thừa hành chỉ thị của Hồ Chí Minh, phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trong các tội
ác diệt chủng do chính Trường Chinh và lũ thuộc hạ
đã sát hại trên 200.000 nông dân vô tội. Giết lầm là 172.008 nạn nhân
6-Võ văn Kiệt:
Võ Văn Kiệt cũng đã
có ý kiến chính thức với lãnh đạo đất nước là nên đối thoại với những người bất đồng chính kiến[8], ông
nói: “chính
kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với
nhau một cách sòng phẳng”[9].
Về việc bầu cử đại biểu Quốc hội ông cũng có nhận định: “Một quốc hội có người tự ứng cử và được
dân bầu lên một cách tự do sẽ tốt hơn quốc hội
bây giờ”[9].
“Tổ quốc là của mình,
dân tộc là của mình, quốc gia là của mình, Việt Nam là của mình,
chứ không phải là của riêng của người cộng sản hay của bất cứ tôn giáo
hay phe phái nào cả[4] “ tuyên bố như thế nhưng thực tế Kiệt chính là tên độc tài,
khát máu:
“Có hàng trăm con đường
yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam không của riêng một đảng,
một phe phái, tôn giáo nào[8]”
Không ai chọn cửa
mà sinh ra![24]””
Võ Văn Kiệt tuyên truyền một đàng, làm một nẻo: “Gọi họ là “ngụy”
mà chúng ta phải học hỏi nơi họ thì nghe kỳ quá.”
“Trên chặng đường mới này của đất nước,
hơn bao giờ hết cần giương cao ngọn cờ dân tộc và dân chủ”
“Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”
7-Trần Văn Giàu
Trần
Văn Giàu nhận định: “Cách mạng là sự nghiệp của
nhân dân; riêng lực lượng của Đảng không làm
nổi cách mạng; phải có sự tham gia, sự
nổi dậy của hàng triệu đồng bào”[9
Trần Văn Giàu được cử làm chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Nam Bộ, phát lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến.
Đêm
qua thực dân Pháp đánh chiếm trụ sở chính quyền ta ở trung tâm Sài Gòn. Như vậy
là Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta một lần nữa.
Ngày
2 tháng 9, đồng bào đã thề quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ độc lập
của Tổ quốc.
Độc lập hay là chết!
Tất cả đồng bào, già, trẻ, trai, gái hãy cầm võ khí
xông lên đánh đuổi
quân xâm lược.
Ai
không có phận sự do Ủy ban kháng chiến giao phó, thì hãy lập tức ra khỏi thành phố.
Những người còn ở lại thì:
- Không làm việc, không đi lính cho Pháp.
- Không đưa đường, không báo tin, không bán lương thực cho
Pháp. Hãy tìm thực dân Pháp
mà diệt.
-Hãy đốt sạch, phá sạch các cơ sở, xe cộ, tàu bè,
kho tàng, nhà máy của Pháp.
Sài
Gòn bị Pháp chiếm phải trở thành một Sài Gòn không điện, không nước, không chợ
búa, không cửa tiệm.
Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là
tiêu diệt giặc Pháp, tiêu diệt tay sai của chúng.
Hỡi
anh em binh sĩ, dân quân, tự vệ! Hãy nắm chặt vũ khí trong tay xông lên đánh đuổi thực
dân Pháp, cứu nước.
Cuộc kháng chiến bắt đầu!
Sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945
CHỦ TỊCH ỦY BAN KHÁNG
CHIẾN NAM BỘ”
Ở Việt Nam, ông Trần Văn Giàu, một sử gia lão thành đã từng lăn lộn lâu đời giữa chồng sách vở kinh
điển của chủ nghĩa Marx-Lênin, mới đây đã thú nhận: «Nhà nước nó sinh ra
nhiều vấn đề ghê gớm lắm mà tất cả những nhà khoa học, trong đó có tôi, không đủ
can đảm để nghiên cứu. Tại làm
sao những người cách mạng và kháng chiến như chúng ta lại xây dựng một nhà nước quan liêu không
ai bằng, một tỉnh Thanh Hóa đông nhân viên hơn toàn bộ Ðông Dương
thời Pháp thuộc, một nhà nước lạ lùng như thế, rồi cả nước Việt Nam này
cũng tương tự, thì lấy cái gì mà nuôi nhà nước. Tạo ra nó mà để cho nó nghèo thì nó ăn trộm, trả cho nó mức
lương chết đói thì nó phải bóc lột nông dân; tôi đã bảy mươi mấy tuổi đời nhưng chưa thấy thời kỳ
nào mà người nông dân nghèo như bây
giờ
(...) Tại
làm sao? Vì phải nuôi cái bộ máy nhà nước to quá!» (Tuổi Trẻ, 27-10-1988).
Cái thảm kịch ở đây là hai tầng áp bức. Ông Giàu viết tiếp:
«Cái bộ máy đó, nó đè nặng trên nông dân và công nhân» (trí thức xã hội chủ
nghĩa nữa chứ!).
«Ăn trộm» và «bóc lột» , cái bộ máy đó, vẫn theo lời ông Giàu, còn «không có hiệu
lực». Và đây là một bi hài kịch đích thực. «Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản
lý» - thực chất của cái hợp đồng chính trị chạy làng này là
chuyện Thằng Mù Cõng Thằng Què tân thời. Thằng què «lãnh đạo», còn mắt nhưng tim óc cũng đã
mù lòa, nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn những kẻ thù cần phải tiêu diệt, lại mắc
bệnh chủ quan
không phân biệt nổi mộng với thực, chỉ vẽ rặt những đường tắt láo lếu; thằng mù «quản lý»
bước đi của cả cặp, cứ cả tin y theo lời hướng dẫn mà «tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc» vào toàn những chỗ chết.
«Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước» ...
«Bây giờ phải sửa nó
như thế nào?»
Để kết luận về giai đoạn này, có thể nói là để nắm giữ quyền
lực riêng về cho đảng Cộng sản Đệ Tam,
Trần Văn Giàu đã nhẫn tâm sát hại
hầu hết một thế hệ những nhà ái quốc, cách mạng ở Nam Bộ, làm tiêu hao tiềm lực cuộc đoàn kết
kháng chiến thuở ban đầu. Trong một cuộc gặp gở sau này với Trịnh Hưng Ngẫu ở Thái Lan, Trần
Văn Giàu còn cho ông Ngẫu biết là y chưa hoàn tất việc thanh toán
các nhân vật còn có tên trong sổ đen của y. Nhà
văn Pháp Michel Tauriac, nghiên cứu về Việt Nam, trong quyển Viet
Nam, Le dossier noir du Communisme(Hồ sơ
đen Việt Cộng), đã gọi Trần Văn
Giàu là “tên sát nhân cũ của Việt
Minh ở Nam Việt Nam” (Trân Van Giau, l’ancien assassin viet minh du Sud-VietNam, sách đã dẫn, nxb Plon, 2001, trang 103).
Trần Văn Giàu bị bắt và đã khai với bồi thẩm Trần Văn Tỷ khiến 167 đồng chí bị bắt, khi các đồng
chí trong tù trách cứ thì Giàu đã thanh minh: “Mật
thám mà đánh tôi chết thì đảng mất đi một thủ lãnh. Tôi khai như vậy,
khỏi bị đòn, các đồng chí mỗi người lãnh ít năm tù để trả giá cái mạng sống
của tôi”.
Chỉ trong vòng có 2 tháng trời, giành quyền đại diện dân
chúng miền Nam, Việt Minh đã biến tình
đoàn kết thành nội thù. Các vụ giết người mờ ám, các vụ khủng bố đẫm máu...đã làm cho dân miền
Nam thức tỉnh. Phi nghĩa và làm mất thế
đoàn kết ngay khi Việt Minh ra lịnh đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình của Phật Giáo Hòa Hảo tại Cần
Thơ.
Trần Văn Giàu chủ trương tiêu diệt
các đảng phái không theo Cộng Sản :
- Cách mạng nào mà không đổ máu ?
Chúng ta hãy tiêu diệt bọn “phản động”, “Việt gian” với bất cứ giá nào.
Một người trong nhóm chúng tôi thắc mắc :
- Tại sao độc lập rồi mà còn giết nhiều người tài đức, có
uy tín ? Trần Văn Giàu trả lời :
- Cách mạng làm gì có đức ? Ai làm cách mạng mà không giết
người ?
8-Trần
Quốc Vượng:
Là một trong tứ trụ triều đình trong
ngành sử học (Lâm, Lê, Tấn, Vượng) ông có được sự can đảm hơn các đồng sự khi dám phô bày một số sự thật về Hồ Chí Minh, nhưng
trước sự tàn ác của CSVN trong chiến tranh, ông chưa hề đụng đến! Mà ông chỉ thiên về nghiên cứu sử, văn hoá sử. Trước hàng triệu sanh
linh bị sát hại trong cuộc chiến VN, trách nhiệm của một trí thức VN đâu chỉ có thế là đủ.
“
Sau Cách
mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt
đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê, lại âm thầm bàn
tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi
cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969”.
“Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao
được khi cụ Hồ, tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ, đã trở
thành "huyền thoại".
9-Nguyễn
Văn Trấn:
Chính ông là người lãnh đạo cuộc đảo
chính cướp chính quyền thành phố Saigon ngày 25-8-1945. Chính Ủy Bộ Tư Lệnh Khu 9, giảng viên trường Nguyễn Ái Quốc. Vụ Phó Ban Tuyên huấn Trung ương .Ông là đại biểu quốc hội “thứ nhất và duy nhất của vùng Saigon Gia Định”.
Nhưng 26 năm ở miền Bắc quyền hạn và ảnh hưởng của ông càng ngày càng giảm sút. Sau 1975 ông trở về Nam sống thanh đạm như một người
ngoài cuộc. Sau này ông
là xứ ủy viên rồi phó bí thư Nam bộ
(1), giám đốc công an Nam Bộ. Tác giả của tập sách được một số báo ở hải ngoại ca tụng “Viết cho mẹ
và quốc hội”, thì đồng bào trong Nam còn ai
xa lạ gì tội ác của ông này. Trấn đã giết hàng ngàn người
vô tội bị hắn kết án là Việt gian đến nỗi hắn được đồng bào đặt cho hỗn danh là “hung
thần Chợ Đệm”.
“Cho nên không sợ quá trớn. Có quá trớn mới bớt lại mà ngay được.
Đấu tranh ruộng đất là một cuộc cách mạng kinh thiên động địa. Trong một cuộc đảo
lộn lớn lắm của cuộc sống, có người chưa quen họ kêu. Không có gì lạ cả. Ta
đánh họ đau mà họ không kêu đó mới đáng lấy làm lạ chớ!”
Những điểm “độc hại ” trong “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”của
Nguyễn
Văn Trấn bị CSVN lên án:
1- Lên án những sai lầm và tội ác của đảng
Cộng Sản VN và bôi nhọ một số cán bộ chủ chốt của đảng.
2- Phản đối việc thống nhất đất nước và
đề xuất tư tưởng về liên bang VN, về chính phủ
miền Nam.
3- Phản đối việc đàn áp tôn giáo và ca
ngợi đạo Ki-Tô và kêu gọi trở
về với tôn giáo.
4-Phản đối bóp nghẹt tự do dân chủ,
đòi tự do báo chí tuyệt đối, đòi cho ra lại tờ “truyền thống kháng chiến.”
“Đây mới là thí điểm,
nó đòi ta làm hồ sơ trong từng xã. Một xã có từng này bần cố nông
thì theo kinh nghiệm Trung Quốc, nhất định phải có bằng này địa chủ.
“Độc giả ơi! Anh mà hỏi
tôi (dầu cho hồi ấy) có tin những lời thánh thần ấy hay không là anh chửi cha
tôi. Tôi giận trong lòng, sao họ khinh miệt dân ta đến như vậy.”
(trang 166-167)
Nguyễn Văn Trấn đã để trong ngoặc
đơn lời than đau đớn
về cải cách ruộng đất:“(...Ôi
bằng cải cách ruộng đất, các ngươi đã giết bao nhiêu mạng
người!) ” (trang 197)
Một trăm trang sau ông viết: “Tội ác của cải cách ruộng đất thì nói sao cho xiết.” Và: “Mình phải thay trâu mà kéo cầy nhưng vẫn tin như thật: có cơm chan nước mắt mà lùa là nhờ ơn đảng, ơn Bác.” (Trang 268)
* Ngoài cái tội giết người, cải cách
ruộng đất còn bị Nguyễn Văn Trấn kết tội phá tan hoang kinh tế:
“...Người nông dân đốt
mía làm củi đem bán (ở Hà Đông, MV). Cải cách ruộng đất làm
cho sản xuất như trẻ con đứng chựng. Rồi cải tạo tư sản đánh cái đòn
của nó làm cho kinh tế hóa ra cái gì lúc ấy không có lời văn tả, vì
nhân văn giai phẩm đã bị đánh quẹp”
“Tôi
sẽ thưa: – Luật ấy có ác nhơn, cũng tại người làm. Nè nghe má. Có lần anh chị em Nam Bộ “đại biểu” biểu tôi đến gặp
ông già Tôn mà hỏi, tại sao ổng để
cho cải cách ruộng dất giết người như vậy?” Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi, liền đứng dậy bước ra
khỏi ghế, vừa đi và nói:
- Đ. m., tao cũng sợ nó, mày biểu tao còn dám nói cái gì?”
(trang 266-267)
“Thật ra sự học tập chỉnh huấn đã làm cho người Cộng Sản thơ ngây ngày xưa thấy: “học rồi mình chẳng
còn ra con người nữa.” (trang 172-173)
* Về sự tranh chấp giữa Liên Xô và Trung Quốc trong khoảng thập niên 60, Nguyễn Văn Trấn ghi nhận: “Ông Hồ chung thủy với Liên Xô mà đồng thuận với chiến
lược hòa bình. Nhưng ông không đồng thuận được với đảng (đảng mà ông tổ chức và
giáo dục). Nó đem ông ra mà làm tình làm tội. Cái đó ít ai biết. Tôi biết và sẽ
nói đây....(trang 325)
NVT đã lên án chế độ bằng những lời lẽ không kiêng nể: “Tội ác của chế độ này, từ 40 năm nay thật nói không hết...”
(trang 345)
* Ông gọi những Nguyễn Hộ, Hồ Hiếu, Đỗ trung Hiếu và linh mục Chân Tín là “tử nạn của chế độ khi vui thì bắt, khi buồn thì
tha”.(trang 366)
Về tình trạng tha hóa của giai cấp công nhân, Nguyễn Văn Trấn khẳng định kẻ trách nhiệm chính là đảng
chứ không phải họ: “Chúng ta thường phê phán giai cấp
công nhân tha hóa, nhưng quên rằng chính Đảng, Nhà nước vô sản của ta đã làm
tha hóa giai cấp công nhân” (trang 384)
“Về quyền tự do báo chí mà điều 67 của hiến pháp đã quy định:
“Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do
biểu tình …phù hợp với lợi
ích của chủ nghĩa xã
hội.” Ông viết: “Đã nói tự do báo chí sao lại phải
xin phép? Chúng tôi rất khó hiểu về quan niệm tự do của các anh. Đã xin
phép thì không còn gì là tự do.” (trang 390)
“Chế độ cai trị thuộc địa mở mang đầu
óc cho dân tộc sống quá lâu dưới chế độ phong kiến lạc hậu. Và người Saigon cũ, dân
Nam Kỳ, sống
với chế độ thực dân, đã có sự giác ngộ chính trị đạt được trình độ chín muồi rất sớm.(4) Bắc Hà như Trường Chinh, Lê Đức
Thọ không thấy
những giá trị dân chủ mà nước Pháp sớm đem cho “thần
dân Pháp ở Nam Kỳ” và người ta lấy cái không dân chủ, vô luân
thường mà đè đầu người đã tập nhiễm dân chủ cách mạng lâu đời rồi thì đè nén như ở các xứ lạnh,
tuyết phủ, mặt trời lên, cỏ lại ngóc đầu.” (432)
Không ai nghi ngờ ông
chủ trương một nước riêng của miền Nam mà theo ông, những người lãnh đạo phải gồm những người
đã từng được hấp thụ văn hóa của một nước Pháp tiên phong trong cách mạng dân chủ tư sản. Ông là người Cộng Sản, nhưng lại ước muốn –
và có vẻ luyến tiếc – một nền dân chủ tư sản, dù chỉ
là “tương đối.”
Đào Duy Tùng nhận xét sau đây về
cuốn “Viết Cho Mẹ và Quốc Hội”:
“Đây là một cuốn sách đả kích cay độc Đảng ta và tác động
mạnh mẽ tâm lý tư tưởng của
người đọc, một cuốn sách phản động nhất trong những cuốn sách phản động! Bởi vì nó
đã bêu xấu, chửi bới và lên án Đảng ta một cách toàn diện và có hệ thống.”
10- Trần Bạch Đằng
Trong sự nghiệp của mình, ông có nhiều
bút hiệu như: Hưởng Triều, Nguyễn Hiểu Trường, Nguyễn Trương
Thiên Lý, Trần Quang... và tham gia ở nhiều thể loại khác nhau. Về thể loại báo chí, ông được xem
là một cây bút tích cực phê phán tiêu cực và có nhiều kiến nghị sâu sắc về việc đổi mới của
Việt Nam. Cũng chính nhân vật Trần Bạch Đằng này là một trong những cấp chỉ huy cao cấp nhất trong trận ‘Tổng
Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa’ Tết Mậu Thân (1968) đánh vào Thủ đô Sài Gòn. Sau trận Tết Mậu Thân, Trần Bạch Đằng
nắm chức vụ bí thư Thành ủy, rồi bí thư đặc khu Sài Gòn – Gia Định (2). Đó là đỉnh
cao nhất trong sự
nghiệp chính trị của ông ta.
Kể từ 1972, Trần Bạch Đằng bị hất ra
khỏi những vị trí quyền lực. Và sau 30 tháng 4 năm 1975, có thể nói ông không còn hiện diện trên chính trường, nhưng lại khá nổi tiếng
trong lãnh vực viết lách.
Những người am hiểu đều cho rằng Trần Bạch Đằng là ‘một người Cộng sản đa tài nhưng bất đắc chí
cho đến khi nhắm mắt lìa đời’!
“Rốt cuộc tài năng là
thằng nào nịnh giỏi, thằng nào bợ đít hay; dạ dạ, dạ dạ, vâng vâng,
chí phải, chí phải thì thằng đó tài năng”
“Nói thật với các đồng chí mỗi ngày tôi nhận được rất nhiều
thư tố cáo. Có lẽ chỗ này là chỗ người ta
còn có thể nói được. Ðọc xong rồi tôi nhức đầu ghê lắm. Ăn
hiếp dân từ cái tay khóm trưởng, tổ trưởng quá lộng hành. Rồi thì thư
tay can thiệp của mấy ông, tôi nói cả mấy ông Bộ Chính trị can thiệp
nữa.”
“Khi nói đại đoàn kết
toàn dân có nghĩa là để các tầng lớp đại đoàn kết với nhau, nhưng mà chủ yếu là Ðảng làm trung tâm đại đoàn
kết như thế nào, trước hết phải
trách mình. Cuối cùng rồi chúng ta lại thành ra cái hẹp hòi, một cái tổ chức chỉ
lo lợi ích của riêng mình thôi.”
“Rốt cuộc Ðảng trở
thành cái chỗ dành nhau, vô để có địa vị, có quyền lợi chứ không phải vì lý tưởng gì cả...”97
-Cái chết năm 2007 đánh dấu cuộc đời một người tận tụy chạy
theo chủ nghĩa Duy Vật ngoại lai bị đảng
CSVN vắt chanh bỏ vỏ99.Còn nói ông là một nhà yêu nước (hay yêu điạ
vị)bị đảng trù dập thì phải xét lại vì những điều tàn ác mà ông đã gây cho bao nhiêu cái chết
cho người dân Miền Nam
trong cuộc chiến “không cần thiết” 1945-1975.
11-Tố Hữu:
Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị; Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi
Phó Chủ tịch thứ nhất Hội
đồng Bộ trưởng cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương. Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng Ban Thống nhất
Trung ương, Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương.
Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII. Tuy nhiên khối lượng thơ quan trọng
nhất của Tố Hữu được
dành để ca tụng ông Hồ Chí Minh (HCM). Ðối với ông ta và của cả Ðảng CSVN. Tố Hữu
có những câu thơ nịnh bợ để đời:
“Ngôi sao sáng nhất trời
cao băng rồi !
Xta-lin ơi !
Hỡi ơi Ông mất, đất trời
biết không ?
Thương cha, thương mẹ,
thương chồng
Thương mình thương một,
thương Ông thương mười.”
“Xta-lin !
Yêu biết mấy nghe con tập nói.
Tiếng đầu lòng con gọi Xta-lin ! “
Bài thơ ca tụng
Hồ Chí Minh và Stalin một cách lố bịch,
vô liêm sĩ :
“Bác bảo đi, là đi
Bác bảo thắng, là thắng.
Việt Nam có Bác Hồ
Thế giới có Xta-lin”
Ðây chính là một trong những chi tiết mà ngày nay nhà nước Việt
Nam cố tình tảng lờ không
nhắc đến vì bây giờ thế giới đã biết đến Stalin như một bạo chúa ngang tầm với Hitler, Tần Thủy Hoàng.
Việt Nam Trung Hoa,
Núi liền núi, sông liền
sông,
Chung một biển đông,
Mối tình hữu nghị sáng như vầng Đông
Trái tim ông đã đặt trên lý trí của
ông, trên quyền lợi của dân tộc khi ngày nay không phải vô ý mà đất đai tổ tiên trao tay ”mặt
trời phương Đông”, những ”đồi
cọ, rừng chè, đồng xanh ngào ngạt” từng được ông lôi vào trong thơ nay còn đâu!
12-Nguyễn
Văn Linh
1947, là Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, đến 1949 là Thường
vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Từ 1955 tới 1960, ông là Bí thư Đặc
khu ủy Sài Gòn-Gia Định, 1960,
tại Đại hội Đảng lần thứ III ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, làm Bí thư
(1961-1964), rồi Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
1976, làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ
Chí Minh. Tháng 12 năm
1986: tại Đại hội Đảng lần thứ VI được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ
Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, kiêm chức Bí thư Đảng ủy
Quân sự Trung ương (1987). Từ đây bắt đầu thời
kỳ Đổi Mới và Cởi Mở của Việt
Nam. Cũng trong thời gian này ông viết một loạt bài “Những việc phải làm ngay”
đăng trên báo Nhân dân, ký tên NVL.[1]
Tiếp tục thần phục Trung Cộng: Nhận định
về sự thần phục,quỵ lụy khiếp nhược trước Trung Cộng khởi đầu từ TBT Nguyễn Văn Linh năm 1989. Sau khi “tổ quốc Liên Xô” của
ông Lê Duẩn tan rã năm 1989, thì từ thời Nguyễn Văn Linh cho đến thời Lê Khả Phiêu, các tổng
bí thư vẫn coi việc quy phục
Trung Quốc là cách duy nhất để cứu vãn cơ đồ thống trị của đảng trên nước Việt Nam. Nguyễn
Văn Linh là người có kinh nghiệm cá nhân đau đớn khiến chính bản thân ông coi việc quy phục Trung Cộng
là điều không thể tránh được.
Trần Quang Cơ,
viết năm 2001, thì trong cuộc đại lễ ở Berlin, Linh cũng gặp lãnh tụ Rumani là
Chủ Tịch Ceaucescu. Lãnh tụ tối cao cha già
dân tộc Rumani và “anh Linh xem ra tâm đầu ý hợp trong việc bàn chuyện tâm huyết
cứu vãn sự nghiệp xã
hội chủ nghĩa thế giới đang lâm nguy.”
Nhưng ngay sau
đó, Linh nghe tin cả hai vợ chồng Ceaucescu bị các đàn em đảo chính và đem bắn. Những kinh nghiệm đó khiến
Linh phải lo lắng cho số phận của chính
mình và các lãnh tụ cộng sản Việt Nam khác. “Phải tìm cách tự cứu!”
“Trước tình hình ấy,” Trần Quang Cơ
viết, trong nội bộ Ðảng Cộng Sản Việt Nam “nổi lên một ý kiến... phải bằng mọi giá
bắt tay ngay với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội.” (trang 22, bản thảo sách trên). Xin nhấn mạnh những chữ “bằng
mọi giá” và “ngay” lập tức. Trần Quang Cơ mô tả luận điểm của
Nguyễn Văn Linh dùng để thuyết phục Bộ Chính Trị nên chịu thua Trung Cộng là: “Dù bành trướng thế nào, Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.” Lúc đó Nguyễn Văn Linh đóng vai người lãnh đạo cao nhất
nước mà nhún mình nói, “các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay!” Không có cách nào “khiêm tốn”
hơn!
Trần Quang Cơ, một người tỏ ra rất trung thành với đảng và kính trọng Nguyễn Văn Linh, chúng ta thấy động cơ khiến Linh và tập đoàn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam đã lựa chọn con đường hợp tác với Trung Cộng chỉ vì họ thấy hoàn toàn cô đơn, không còn biết nương tựa vào đâu để “bảo vệ chủ nghĩa xã hội.” Trong thực tế là bảo vệ quyền hành của họ. Ðặng Tiểu Bình đã “bắn tin” cho các lãnh tụ Hà Nội. Trần Quang Cơ viết, “Trong khi không tiếc lời phê phán Lê Duẩn, Ðặng đã hết lời ca ngợi Nguyễn Văn Linh. Ðặng kể lại khi làm tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1963 (Ðặng) đã tổ chức đưa Nguyễn Văn Linh từ miền Nam (Việt Nam) sang Hồng Kông để đi Bắc Kinh gặp nhau, (Ðặng) khen Anh Linh là ’người tốt, sáng suốt, có tài’’.
Chủ
trương của Nguyễn Văn Linh :Việt Nam và Trung
Quốc đoàn kết bảo vệ chủ
nghĩa xã hội...” đó
chỉ là khẩu hiệu bịt mắt dân, thực tế là bọn CSVN sợ mất quyền lợi, mất tài sản
của họ đã gom góp được.
Không phải chỉ riêng Nguyễn Văn Linh mà tất cả những thành
viên trong Bộ Chính Trị đảng CSVN để
cứu đảng, họ sẳn sàng hy sinh cả một Dân Tộc. Bởi vì đối với họ những gì cao quý nhất không phải là Dân Tộc và Tổ Quốc, chỉ có đảng và
tài sản kết xù của họ là quan trọng nhất mà thôi !!!
13-Nguyễn
Mạnh Tường:
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường sinh năm
1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Ông theo học tại trường Albert Sarraut và đỗ tú
tài năm 16 tuổi. Sau đó du học tại Đại học Montpellier ở miền nam nước Pháp năm 1927. Khi mới 22 tuổi ông trở
thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp: Ưu hạng Luật khoa. Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh
Tường dạy văn học Pháp ở trường Trung học Bảo hộ (Lycée du Protectora). Sau 1954 ông giữ các chức vụ Trưởng
khoa Đại học Luật Hà Nội, Phó chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Đoàn Luật sư, Phó Trưởng khoa Đại học Sư phạm Hà Nội;
thành viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên của Hội Hữu nghị Việt-Pháp, Hội Hữu
nghị Việt-Xô và Ủy ban Bảo vệ Hoà bình Thế giới, sáng lập viên Câu lạc bộ Đoàn Kết, Phó hiệu
trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chuyên viên nghiên cứu giáo dục. Ông tham gia phái
đoàn chính phủ dự hội nghị
trù bị Đà Lạt năm 1946, dự các hội nghị hòa bình thế giới ở Bắc Kinh và Wien năm 1952.
GS Nguyễn
Mạnh Tường đã phân tích sâu sắc những sai lầm của Đảng và Nhà nước trong Cải Cách Ruộng Đ ất:
…”Khi trong
Cải cách Ruộng đất của ta, ta thấy bao nhiêu người bị tù tội, bị giết oan, trong đó bao nhiêu người dân ưu
tú đã từng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp cách mạng, khi hiện thời ở nông thôn vẫn có người bị đánh đập, ngược đãi, khi ta
không xây dựng được đoàn kết giữa các đồng bào, thì ta phải nhận định rằng các sai lầm ta đã mắc trong cuộc Cải cách Ruộng đất
này chỉ là những biểu hiệu cực độ của các sai lầm ta đã phạm, và các sai lầm ấy nêu lên, như tôi trình bày trên đây, một vấn đề cực kỳ
quan trọng là vấn đề lãnh đạo của Đảng Lao động.”
Ngày 30 tháng 10 năm 1956 luật sư Nguyễn Mạnh Tường, với
tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc,
đã đọc một bài diễn văn tại một cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, phân tích sâu sắc
những sai lầm của Đảng và
Nhà nước trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng tránh mắc lại. Sau phát
biểu này, ông bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp:
“ Nhưng tôi cũng phải thú
rằng lòng phấn khởi của tôi một
phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất.
Tôi xin phép các vị được
kính cẩn nghiêng mình trước kỷ niệm những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch
mà chính của ta.”
“…Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở,
cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó,
nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà
không ngậm ngùi?”
“…Chủ yếu tôi sẽ phê phán và truy
nguyên các sai lầm trong Cải cách Ruộng đất,
nhưng theo ý tôi các sai lầm này chỉ là biểu hiện điển
hình và bi đát nhất của những thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Lao động. Do đó tôi xin được góp ý kiến
xây dựng quan điểm lãnh đạo của
Đảng Lao động.
Tại sao tôi lại tin như vậy? Là vì, không những trong Cải
cách Ruộng đất chúng ta đã
phạm sai lầm nghiêm trọng mà cả trong nhiều khu vực khác nữa. Trong các khu vực này, sai lầm cũng đã đưa một số người trong quần chúng đến cái chết thê thảm.
Do đó, nếu chỉ cục bộ hóa các sai
lầm, chúng ta không thể rút được bài học kinh nghiệm, chúng ta sẽ
khiếm khuyết với sự tín nhiệm của tất cả các đảng viên Đảng Lao động, với sự mong đợi của toàn dân. Chúng ta
phải kiên quyết không cho các
sai lầm ấy tái diễn và tác hại nữa. Đó là nhiệm vụ tối thiểu của chúng ta đối với các người đã chết oan.”
“Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là
đằng khác nữa. … Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: “Thà 10 địch sót còn hơn
một người bị kết án oan”. Thế ta có
lo ngại rằng 10 địch sót không? Không, vì
ta nắm chính quyền, vì cách mạng ta đã thành công. Như vậy kẻ thù của cách mạng chẳng sớm thì chậm, nhất định hoặc
cải thiện, giác ngộ, hoặc lọt vào lưới của ta. Khẩu hiệu này lợi ở chỗ: không
một người oan nào bị kết án. Do đó,
không có các kết quả cực kỳ tai hại diễn ra hiện thời.”
Sai lầm có 3 lý do :
Quan điểm ta-địch,
thù-bạn của ta rất mơ hồ.
Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý Ta bất chấp chuyên môn
Vì trung chính, yêu nước thương dân, dám phê phán lãnh đạo
mà giáo sư NMT và vợ con phải chịu nhiều đau khổ bởi sự tàn bạo của những người cộng sản.
Người cộng sản hô hào giải phóng “nô
lệ thế gian” nhưng hơn ai hết, những người cộng sản Việt Nam chính là những người nô lệ tự nguyện, nô lệ được trùm che dưới hai
chữ “anh em” với Tàu, Liên Xô.
“….Cá nhân tôi, qua những quan sát, phân tích và suy nghĩ,
tôi đã đi đến một số kết luận về
những sai lầm của Đảng. Thứ nhất, cái mà giáng lên ngay cả những người
ít học nhất, là thái độ nô lệ thần phục hoàn toàn trước hai “ông anh lớn” Liên
Xô và Trung Quốc.”
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường viết: “Trong những năm 1989-1990, cả nước bàng hoàng thất
vọng và kinh hoàng trước tội ác của những đảng viên biến chất, nhiều quan chức
cao cấp của Đảng và của Nhà Nước đã hành xử như những băng đảng trộm cướp, đã
nuốt nhiều tỉ đồng của công quỹ để thoả mãn ham muốn đê tiện của mình”.
14- Bùi
Tín:
Bùi Tín (sinh năm 1927) là một nhân vật bất
đồng chính kiến người Việt,
từng là phó tổng biên tập của báo Nhân Dân, đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Khi ra ngoại quốc
Bùi Tín có những nhận định khác với thời kỳ phục vụ cho CSVN .
-Tuyên bố của nhà báo Bùi Tín nhân ngày 30-4-2010:
Hơn nữa, sự có mặt của tôi ngày 30-4 -1975 ở Sài Gòn với
hy vọng hòa giải và hòa hợp
dân tộc trọn vẹn đã sớm tan thành mây khỏi, với chính sách thực tế của
lãnh đạo CS là chiếm đóng, trả thù, đày đọa các viên chức, binh sỹ, đồng bào ruột
thịt ở miền Nam, tịch thu quyền sống tự do, có nhân phẩm,
nhân quyền của nhân dân cả nước suốt 35 năm nay. Gần 20 năm nay họ để cho bọn
bành trướng uy hiếp, mua chuộc, để chúng lấn đất, lấn
biển, lấn đảo, giết hại ngư dân ta...”
Trong tác phẩm“Cung vua và Phủ chúa”
Bùi Tín viết:
“…Qua nửa thế kỷ cầm quyền của đảng CS trên miền Bắc và
hơn 16 năm trên cả nước, quyền tự do suy
nghĩ, tự do ngôn luận của người dân đã bị thủ tiêu, người dân ít có ai giữ được
khả năng tư duy độc lập, hầu như toàn dân đã quen với
nếp sống đã có đảng lo nghĩ thay cho mình mọi sự. Cả một lớp trí
thức đã bị đảng làm cho mê muội, cắt đứt với thế giới tiến bộ, gần như vô cảm đối với vận mệnh dân tộc và
cuộc sống mất tự do của nhân
dân.”
Bùi Tín đã so sánh nhận thức chính
trị của hai nhân vật tiêu biểu:
“ Tôi cho rằng ông Diệm là một nhân vật chính trị đặc sắc , có lòng yêu nước sâu sắc , có tính
cách cương trực thanh liêm , nếp sống
đạm bạc giản dị . Giờ đây chúng ta đã có
những bằng chứng về lập trường của ông Ngô Đình Diệm
: chống thực dân Pháp , giành lại
quyền nội trị đầy đủ , không muốn Hoa kỳ can thiệp sâu , chống lại
việc ồ ạt đưa quân chiến đấu Mỹ và nước ngòai vào. Trong sự so sánh ấy
, ông Hồ Chí Minh tỏ ra không bằng ông Ngô Đình Diệm . Về tinh thần
dân tộc , ông Ngô Đình Diệm cũng tỏ ra hơn hẳn ông Hồ Chí Minh”.
Nhưng công tâm mà xét trong suốt 20 năm tỵ nạn chính trị
ông Bùi Tín đã có những đóng góp rất tích cực
trong việc tố cáo về những sai lầm, tội ác, thủ đoạn gian trá của Cộng sản VN. Bằng những hiểu biết sâu sắc am hiểu nội tình ông đã nhiều
phen vạch trần các thủ đoạn gian manh của CSVN, sự dấn thân của ông trong đó lớn hơn cả là sự hy
sinh gia đình vợ, con, cháu
và họ hàng, bằng hữu suốt cả 20 năm dài thật là to tát. Với 83 tuổi đời, cuộc sống đơn giản chật
vật, cặm cuội viết bài tố cáo tội ác CS, tiếp tay với Phong Trào Dân Chủ trong nước, sức làm việc
bền bĩ thể hiện tấm lòng
với dân, với nước của một người lầm đường nay đã hối cải tuy rằng muộn còn hơn không.
Không phải ai một sớm một chiều mà đã thay đổi được tư duy,
hơn nữa công lao của Bùi Tín đối với đảng CSVN rất nhiều (trong đó tội đối với
dân tộc VN cũng rất lớn), cái hào quang cũ muốn xoá nhoà không phải dễ. Trong các nhân vật phản tỉnh
của thời đại,
ông Bùi Tín là người đã đi được khá xa trên con đường
cam go nhất, mong sao ông sẽ hoàn thành trong giai đoạn cuối đời để chứng tỏ mình là người “phản tỉnh
chân chính
15-Nguyễn Minh Cần:
Ông Nguyễn Minh Cần sinh năm 1928 tại Huế. Ông tham gia
kháng chiến trước tháng 08/1945 khi còn là
học sinh ở tại đây. ..Sau
đó, ông hoạt động bí mật tại Hà Nội từ năm 1951. Từ tháng 10 năm 1954 đến 1962 ông làm Ủy viên
Thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà Nội. Năm 1962 ông được Đảng Lao động
Việt Nam (nay là Đảng CS
Việt Nam) cử đi học trường Ðảng Cao cấp tại Liên Xô. đường lối chống Liên Xô của đảng CS
Trung Quốc, đã mở một chiến
dịch truy bức quy mô nhằm thanh toán những người mà họ cho là có tư tưởng theo chủ nghĩa xét lại
của Liên Xô. Nhiều đảng viên và ngay cả những trí thức không dính dáng gì đến Đảng Lao động
Việt Nam cũng bị hãm hại.
Trước tình hình đó, ông Nguyễn Minh Cần
và một số đảng viên cao cấp
khác của Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định xin tỵ nạn chính trị tại Liên Xô.
…Trong suốt thời gian cư ngụ ở Nga,
ông luôn luôn tích cực tham gia và ủng hộ cuộc đấu tranh cho Dân chủ, Tự do và Nhân quyền
của nhân dân Việt Nam.
Cần phải nhắc đến các tấn bi kịch, các thảm họa dân
tộc đã qua và hiện đang còn đang tiếp
diễn dưới nền chuyên chính của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), để mọi
người yêu nước thương dân thắp một nén hương cho vong linh biết
bao người vô tội đã ngã xuống, để tưởng nhớ đến bao nhiêu người
oan ức đã chịu những cực hình man rợ phải ngậm hờn mãi mãi, để nhớ lại
biết bao bạo hành của một đảng độc tài đã gây ra trong quá khứ và
trong hiện tại, để mọi người hun đúc ý chí đấu tranh cho công cuộc dân chủ hóa đất nước. Âu cũng là việc cần lắm
thay ! Hơn nữa, ngày nay tập đoàn cầm quyền
đang cố xuyên tạc lịch sử, cố làm mọi cách để dân tộc
ta quên đi các tội ác tày trời của họ, nhất là để các thế hệ mới lớn lên không hề hay biết gì đến các tội ác
đó và những kẻ tội phạm chính danh
!
Ông Nguyễn Minh Cần kể rõ tội
ác của CSVN trong chính sách cai trị độc tài:
“Nếu nói về những tội ác trong CCRĐ, theo tôi, cần nêu bật
mấy loại chính sau đây.
Thứ nhất: Tội tàn sát thường dân vô tội - tội ác chống
nhân loại.
Thứ hai: Tội phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của
dân tộc.
Thứ ba: Tội phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc.
Thứ tư. Tội phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của
dân tộc.
…ĐCSVN chớ nên đổ lỗi, đổ tội cho ai cả, mà cần thấy hết cái trách
nhiệm lớn lao của mình trong CCRĐ. Chừng
nào ĐCSVN chưa sám hối được về những tội ác đã gây ra, thì
người dân chớ có hy vọng là Đảng sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và sẽ không tái diễn lại những tội ác trước đây.
…Cũng xin mọi người đừng quên : CCRĐ
không phải là thảm họa đầu tiên, cũng chẳng phải
là thảm họa cuối cùng mà tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã
gây ra cho dân tộc ta ! Tôi không kể những thảm họa trước CCRĐ, mà chỉ nói ngay
liền sau CCRĐ là vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm, vụ án Xét lại
- chống Đảng, rồi Cải tạo công thương nghiệp, đánh đổ tư sản ở miền
Bắc, rồi cái nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Thường vụ Quốc hội do
Trường Chinh ký ngày 20.06.1961, nhốt hàng chục vạn người vô tội ở
miền Bắc vào các trại tập trung khủng khiếp, rồi Tết Mậu Thân,
v.v... và v.v... Nếu kể hết thì ta thấy cả một chuỗi dài tội ác khủng khiếp đã qua và đang tiếp tục mãi cho đến tận
ngày nay. Cố nhiên, ngày nay người
ta dùng thủ đoạn tinh vi hơn, nhưng bản chất tội ác vẫn thế.”
Ông Nguyễn
Minh Cần kết tội CSVN về tội bán nước:
“Biểu trưng nổi bật của thời này là Hiệp ước về biên giới ngày 30.12.1999 và Hiệp ước về lãnh hải Bắc Bộ ngày
25.12.2000 mà những kẻ cầm quyền
CHXHCNVN đã tự tiện ký kết với Trung Quốc mà không công khai thảo luận dân chủ
tại quốc hội, cũng như không dám công khai bàn bạc với quốc dân đồng bào, do đó
đã làm cho Tổ Quốc ta mất đi hàng mấy
trăm cây số vuông lãnh thổ, trong đó có vùng ải Nam Quan, thác Bản
Giốc, v.v... và hơn chục ngàn cây số vuông lãnh hải trong vịnh Bắc
Bộ!”